Đây là một loại ung thư hiếm gặp nhưng điều trị khó do ung thư lan rộng, nhanh và thường di căn vào các cơ quan kế cận.
Ung thư túi mật là một bệnh lý tương đối hiếm gặp và có dự hậu xấu.
Ở Việt Nam trước đây, ung thư túi mật ít được đề cập đến do thiếu phương tiện phát hiện, chỉ có một số trường hợp phát hiện qua phẫu thuật đường mật tụy; hiện nay nhờ phương tiện siêu âm, chụp cắt lớp tỉ trọng, chụp đường mật ngược và đặc biệt với sự phổ biến của phẫu thuật nội soi, ngày càng có nhiều báo cáo về ung thư mà trước đó hoàn toàn không có dấu hiệu nào nghi ngờ trước và trong khi mổ.
Ở Việt Nam trước đây, ung thư túi mật ít được đề cập đến do thiếu phương tiện phát hiện, chỉ có một số trường hợp phát hiện qua phẫu thuật đường mật tụy; hiện nay nhờ phương tiện siêu âm, chụp cắt lớp tỉ trọng, chụp đường mật ngược và đặc biệt với sự phổ biến của phẫu thuật nội soi, ngày càng có nhiều báo cáo về ung thư mà trước đó hoàn toàn không có dấu hiệu nào nghi ngờ trước và trong khi mổ.
Khi ung thư túi mật đã có triệu chứng thì triệu chứng thường gặp nhất là đau hạ sườn phải thường xuất hiện trong 3/4 trường hợp hoặc đau vùng 1/4 trên bên phải, kế đến là bệnh nhân nhập viện trong tình trạng vàng da và gầy sút hoặc bệnh nhân nhập viện trong tình trạng buồn nôn và nôn.
Khoảng 10% bệnh nhân nhập viện với
các triệu chứng gợi ý như viêm túi mật hoặc được phát hiện trong hoặc sau khi
mổ túi mật.
Khám lâm sàng có thể phát hiện dấu
hiệu vàng da, vàng mắt, sờ được khối hoặc mảng cứng nằm ở hạ sườn phải ngay
dưới gan và di động theo nhịp thở trong khoảng 40% trường hợp. Triệu chứng cổ
trướng hoặc các dấu hiệu của một ung thư màng bụng hoặc gan to do di căn ung
thư xuất hiện trong khoảng 10% trường hợp.
Làm gì để chẩn đoán?
Ở Pháp, hằng năm có khoảng 1.500-2.000 trường hợp tử vong do loại ung thư này. Tần suất ung thư liên hệ chặt chẽ với sỏi và viêm túi mật mạn, 75 - 90% trường hợp có liên quan đến sỏi mật, bệnh thường gặp ở phụ nữ trên 65 tuổi, tỉ lệ nữ/nam là 4/1. Tỉ lệ sỏi gây ung thư ở Mỹ là 0,2% và thời gian trung bình để sỏi gây ung thư là khoảng 13 năm. Loại sỏi có hình ảnh đá cẩm thạch có tỉ lệ ung thư hóa cao nhất. Hằng năm ở Mỹ có khoảng 6.500 trường hợp ung thư túi mật mới mắc. Viêm túi mật mạn do thương hàn cũng làm gia tăng tần suất ung thư túi mật lên đến khoảng 167 lần; do đó cần điều trị kháng sinh tích cực hoặc cắt bỏ túi mật để dự phòng ung thư sau này. |
Siêu âm: Giúp chẩn đoán trong khoảng 70% trường hợp với các biểu
hiện sau: dày thành túi mật, khối u trong túi mật kèm túi mật to với cấu trúc tăng âm hoặc hỗn hợp, đôi khi thấy được hình ảnh
sỏi với bóng lưng.
CT scanner bụng giúp cho việc chẩn đoán với hình ảnh khối u ở vùng túi
mật với bờ không đều hoặc hình ảnh di căn vào gan.
Ngoài ra, siêu âm và CT scanner còn
giúp hướng dẫn chọc kim sinh thiết khối u giúp chẩn đoán tế bào học.
Nếu có điều kiện thì tiến hành siêu
âm nội soi, độ nhạy của kỹ thuật này cao hơn hẳn siêu âm thông thường, ngoài
ra, kỹ thuật này cũng giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán sự lan rộng của ung
thư, đặc biệt là phát hiện các hạch di căn quanh tế bào gan hoặc di căn vào
đường dẫn mật chính.
Cần phân biệt với bệnh gì?
Các tổn thương túi mật sau đây có
thể nhầm với ung thư túi mật:
Adenome túi mật, u mỡ, ứ đọng trong
túi mật chất dạng cholesterol, polyp túi mật.
Trong trường hợp ung thư túi mật lan
vào đường mật chính thì cần phân biệt với ung thư đường mật và ung thư đầu tụy.
Để phân biệt cần làm các xét nghiệm
như siêu âm, CT scanner, chụp đường mật có cản quang hoặc nội soi ổ bụng.
Phương pháp điều trị
Do phần lớn trường hợp ung thư túi
mật không được chẩn đoán sớm, do đó việc cắt bỏ để điều trị triệt để chỉ thực
hiện được trong khoảng 15-30% trường hợp và hiện nay vẫn chưa có một sự thống
nhất hoàn toàn trong việc cắt bỏ đến một mức độ nào. Sau cắt bỏ túi mật có thể
bổ sung bằng chiếu xạ vùng quanh túi mật.
Trường hợp ung thư túi mật không cắt
bỏ được mà có kèm theo vàng da thì một điều trị tạm thời được đề nghị là: đặt
ống dẫn lưu qua nội soi hoặc qua gan hoặc xạ trị liệu cũng làm giảm đau và giảm
vàng da vàng mắt trong 50% trường hợp, tuy nhiên, nó cũng không làm cải thiện
được thời gian sống của bệnh nhân.
Trị liệu phối hợp nhiều thuốc cũng
ít có kết quả trong trường hợp ung thư đường mật.
Tiên lượng ung thư túi mật phụ thuộc
vào mức độ lan rộng của ung thư. Phần lớn ung thư túi mật khi phát hiện (75%)
là đã quá giai đoạn mổ được. Trong trường hợp ung thư còn trong niêm mạc túi
mật thì thời gian sống sót trên 5 năm lên đến 85%.
Khi ung thư chưa vượt quá lớp cơ thành túi mật thì thời gian
sống sót trên 5 năm lên đến 70%, nhưng khi ung thư đã lan đến lớp thanh mạc thì
thời gian sống trên 5 năm chỉ còn dưới 5% và khi ung thư đã lan đến hạch quanh
túi mật thì không có trường hợp nào thời gian sống trên 5 năm. Khi không
cắt bỏ được thì tỉ lệ tử vong sau 1 năm lên đến 95%, chỉ có khoảng 5% là có thể
sống sót sau 5 năm.
Theo Sức khỏe & Đời sống
0 nhận xét:
Đăng nhận xét