Theo
luật "Quy loại ngũ hành" của YHCT, năm "Canh Dần" được ghép vào hành
mộc, mà tạng can, phủ đởm trong cơ thể cũng thuộc về hành mộc. Và cứ
theo cách tư duy, diễn giải của ngũ hành thì các bệnh của tạng can, phủ
đởm, tức bệnh của gan và mật vào năm Canh Dần sẽ dễ gia tăng.
Quả cúc gai
|
Hơn
nữa, sang xuân tiết trời ấm áp hơn, song lại hay kèm theo mưa phùn, ẩm
ướt... và đó cũng là các yếu tố thuận lợi cho việc phát triển, lây lan
các chủng loại vi khuẩn, virut nói chung và không loại trừ các loại
virut viêm gan. Xin giới thiệu một số loại thuốc nam có tác dụng điều
trị các bệnh viêm gan virut.
Cúc gai
Vị
thuốc là quả của cây cúc gai (Silybium marianum (L.) Gaertn), họ cúc
(Asteraceae). Người ta thu hoạch quả già, quả chín, phơi khô hoặc sấy
khô ở nhiệt độ 50-60oC rồi đóng gói vào các túi chống ẩm, để nơi khô ráo
thoáng mát, thường xuyên kiểm tra, đề phòng sâu mọt, nấm mốc phá hoại.
Cúc
gai có vị đắng, tính hàn. Quy kinh can, đởm, phế. Có tác dụng thư can,
lợi mật, thanh nhiệt giải độc. Dùng điều trị các chứng can đởm thấp
nhiệt, các bệnh viêm gan, viêm túi mật, bệnh đau gan, vàng da... Ngoài
ra còn được dùng để trị ho suyễn lâu ngày, mụn nhọt sưng đau. Ngày dùng
4-6g, dưới dạng thuốc sắc, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác, đóng
trong các nang mềm.
Actisô
Hoa actiso.
|
Trong
actisô có chứa các thành phần flavonoid: cynarosid (luteolin - 7- D -
glucopyrano - glucosid); scolymosid (luteolin - 7- rutinosid);
cynarotriosid (luteolin - 7 - rutinosid - 3' - glucosid); các acid hữu
cơ: cynarin, acid lactic, malic, fumaric, succinic...; các enzym:
oxydase, peroxydase, catalase; các chất đắng, inulin, tanin...
Actisô
có tác dụng lợi mật rất tốt, làm tăng lượng nước tiểu và lượng urê
trong nước tiểu, làm giảm nồng độ cholesterol máu và urê máu.
Actisô
được dùng để phòng và trị các bệnh viêm gan virut, các bệnh viêm gan
mật nói chung, các bệnh viêm thận cấp mạn tính, các bệnh sưng đau xương
khớp. Còn được dùng với tính chất giải độc cơ thể, giúp cho việc tiêu
hóa tốt hơn. Có thể dùng dưới dạng chè hãm hoặc sắc uống hàng ngày với
liều 10-12g lá khô; hoặc phối hợp với kim tiền thảo, xa tiền thảo, đồng
lượng, sắc uống hàng ngày khi bị viêm gan, mật, viêm thận, bàng quang.
Ngoài lá, hoa, rễ, thân cây cũng được dùng với tính chất lợi gan mật.
Diệp hạ châu
Còn
gọi là cây chó đẻ răng cưa (Phyllantus urinaria L.), họ thầu dầu
(Euphorbiaceae). Diệp hạ châu là cây thuộc thảo sống hàng năm. Toàn cây
có màu xanh. Thân nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành nhỏ. Hoa đơn tính,
nhỏ, mọc ở kẽ lá, hoặc đầu cành, màu đỏ nâu. Quả nang, hình cầu nhỏ, mầu
đỏ hơi xám nhạt, xếp thành hàng dọc, dưới lá. Diệp hạ châu mọc hoang ở
nhiều nơi trên nước ta. Hiện đã được trồng với diện tích lớn để lấy
nguyên liệu sản xuất thuốc trị viêm gan.
Trong
diệp hạ châu có các thành phần flavonoid, alcaloid phyllanthin
phyllantin, phyllantidin và các hợp chất hypophyllanthin, niranthin,
phylteralin.
Dịch
chiết của diệp hạ châu có tác dụng ức chế mạnh virut HBV thông qua cơ
chế ức chế enzym ADNp (ADNpolymerase) của HBV và làm giảm HbsAg và Anti-
HBs. Với nồng độ 5mg, chất chiết từ cây thuốc này có tác dụng ức chế
phản ứng HbsAg - Anti - HbsAg, khoảng 60%. Với liều 900mg/ngày có tới
50% yếu tố lây truyền của viêm gan virut B (HBV) trong máu đã mất đi sau
30 ngày sử dụng diệp hạ châu. Để trị viêm gan vàng da, có thể dùng
diệp hạ châu 40g, mã đề 20g, dành dành 12g. Sắc uống. Chữa bệnh viêm gan
vàng da: diệp hạ châu, nhân trần, xa tiền, rau má, mỗi vị 12g; uất
kim, đại hoàng, mỗi vị 6g; ngũ vị tử 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống
liền 3-4 tuần lễ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét