Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

8 hành vi gây hại cho gan

Gan là một trong những cơ quan quan trọng nhất của cơ thể. Nếu gan bị bệnh, có thể ví với việc ta kéo một sợi tóc mà làm “kinh động” đến toàn thân.

Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều người lại không hề biết cách bảo vệ gan và phó mặc chúng đối phó với những thói quen sống không có lợi cho sức khỏe.
1. Uống bia rượu nhiều
Trong xã hội hiện nay, dường như bia và rượu đã trở thành một "phương tiện" chủ yếu trong giao tiếp xã hội. Bất kể là bàn chuyện làm ăn hay bạn bè tụ tập mà không có rượu bia thì chẳng có "vị" gì cả, thậm chí có người còn lấy việc uống bao nhiêu để đo mối giao tình nông sâu hay ngồi cù cưa với nhau mãi, quyết "không say không về".
2. Lạm dụng thuốc
Nhiều người, không có bệnh thì uống thuốc bổ, thực phẩm chức năng, có bệnh thì bệnh nào thuốc nấy, nên các cửa hàng thuốc tấp nập người mua kẻ bán, hơi nhức đầu hay sổ mũi liền mua thuốc uống… Rõ ràng, thuốc đang "đổ bộ" tràn ngập vào cuộc sống của chúng ta; mà gan của chúng ta sẽ "lãnh đủ" những trận "hành hạ" của những loại thuốc này.
3. Thiếu ngủ
Ngày nay, cuộc sống về đêm càng ngày càng nhộn nhịp, đặc biệt là ở thành thị, đến 1, 2 giờ sáng vẫn náo nhiệt vô cùng, cho dù không đi ra ngoài chơi, thì người ta cũng ngồi nhà lên mạng, đánh bài… đến nỗi quên cả thời gian đi ngủ, thiếu ngủ đã trở thành "hung thủ" gây hại nghiêm trọng đến sức khỏe.
4. Bực bội, cáu gắt
Cuộc sống khó tránh khỏi những lúc tinh thần suy sụp, bất mãn, oán giận… để tìm kiếm sự cân bằng tâm lý, chúng ta cần phải "giải phóng" chúng bằng cách trút những bực bội khó chịu trong lòng ra ngoài. Nhưng, nếu chúng ta luôn ở trong tình trạng như vậy, động một tí là cáu gắt thì chỉ có hại cho sức khỏe mà thôi.
5. Thích ăn đồ chứa nhiều dầu mỡ
Dầu ăn không thể thiếu trong cuộc sống, chất béo là một chất dinh dưỡng cần thiết của cơ thể. Nếu hấp thụ những đồ ăn có lượng chất béo vừa đủ có thể cung cấp năng lượng cho cơ thể, duy trì chức năng sinh lý bình thường của cơ thể, nhưng ăn quá nhiều đồ ăn có chứa nhiều chất béo thì lại là điều cấm kỵ trong cách ăn uống bảo vệ sức khỏe.
6. Thích ăn khuya
Cuộc sống về đêm ồn ào náo nhiệt thì tất nhiên không thể thiếu được nhu cầu ăn khuya. Đặc biệt là ở thành thị, thói quen ăn khuya khá phổ biến. Ăn khuya làm "vừa ý" cái miệng nhưng lại "đắc tội" với sức khỏe chúng ta .
7. Hút thuốc
Hút thuốc có hại cho sức khỏe thì ai cũng biết rất rõ. Sự nguy hại đầu tiên do hút thuốc lá là có hàng nghìn chất có hại trong khói thuốc. Sau khi được hít vào phổi, chúng sẽ gây ra những tổn hại với mức độ khác nhau cho các cơ quan trong cơ thể, bao gồm cả gan. Đó là một trong những nguyên nhân nguy hại chủ yếu gây bệnh, gây ung thư.
8. Nghiện hút
Như chúng ta đã biết, gan là "công xưởng hóa học" của cơ thể, sự chuyển hóa, hợp thành của các chất mà cơ thể đã hấp thụ đều là nhiệm vụ của gan; gan cũng là cơ quan giải độc lớn nhất của cơ thể, chịu trách nhiệm phân giải các chất có độc mà cơ thể đã hấp thụ. Trong rượu, thuốc lá đều có chất gây tổn hại nhất định đến gan, huống hồ là nếu chúng ta hít ngửi ma túy.


Theo VietQ/ familydoctor

Bệnh ở gan

Bệnh gan là một trong những bệnh biết “ở ẩn” chờ thời cơ. Để tìm ra chúng cần làm xét nghiệm máu, xét nghiệm sinh học phân tử.

Bệnh khó phát hiện
Người nhiễm bệnh gan có vẻ ngoài vẫn như người khỏe mạnh. Không ít trường hợp phát hiện bệnh khi đi khám sức khỏe tổng quát có kết quả men gan tăng. Có nhiều nguyên nhân làm tăng men gan: tế bào gan lão hóa, dùng thuốc… nhưng nguy nhất vẫn là viêm gan do virus, vì chúng là đầu mối dẫn đến xơ gan, ung thư gan.
Đã có trường hợp đi khám sức khỏe phát hiện bị tăng men gan gấp năm lần, trong khi đó da dẻ của bệnh nhân vẫn trắng trẻo, cơ thể khỏe mạnh, làm việc bình thường. 
Nhưng, cũng có những trường hợp bị bệnh xơ gan, bụng phình lên lại cho là bị báng bụng. Bệnh nhân dùng thuốc lợi tiểu để tống khứ nước trong bụng ra cho nhanh, dùng thuốc một thời gian thấy bụng phình to hơn, chân bị phù… khi tìm đến bệnh viện thì đã bị xơ gan cổ trướng nặng.
Dân gian thường cho rằng vàng da là dấu hiệu của ung thư gan. Vì vậy, những ai bị vàng da thường dùng các loại thuốc giải độc gan, thanh lọc cơ thể. Đây là một sai lầm trong điều trị, khiến bệnh gan có cơ hội tàn phá cơ thể. Không riêng gì viêm gan khó phát hiện, mà ngay cả bệnh nhân bị bệnh ung thư gan hai năm cũng chỉ có những triệu chứng đau bụng mơ hồ, biếng ăn, sốt không rõ nguyên nhân.
Bệnh gan nguy hiểmthường gặp
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tại Việt Nam có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B chiếm 10-20% tổng dân số. Đây chính là nguyên nhân gây ra trên 80% các ca bệnh về gan và ung thư gan. 
BS Nguyễn Hữu Tùng - Tổng Giám đốc tập đoàn y khoa Hoàn Mỹ, chuyên khoa viêm gan cho biết: "Mục tiêu điều trị là "áp đảo" không cho virus hoành hành trong gan, ức chế không cho virus sinh sản. Đây là những người lành mang mầm bệnh. Nhờ vậy không bị biến chứng nặng". Còn viêm gan C, mặc dù chưa có vắc xin ngừa bệnh nhưng là bệnh chữa được và chữa khỏi.
Thời gian từ khi nhiễm virus đến khi khởi phát bệnh ở gan từ 20 - 30 năm. BS Phạm Xuân Dũng - PGĐ BV Ung Bướu TP.HCM cho biết: "Theo thống kê năm 2009 tại TP.HCM thì ung thư gan thường gặp nhất ở nam giới, bệnh phát hiện ở mọi độ tuổi, nhưng nhiều nhất là từ khoảng 50 tuổi".
Ung thư gan là bệnh có nhiều cách chữa trị, và tùy vào giai đoạn bệnh, vị trí khối u, kích thước khối u và tổng trạng mà áp dụng phương pháp phù hợp. BS Phạm Xuân Dũng nói: "Nếu bệnh nhân điều trị khi ung thư ở giai đoạn I - II thì tiên lượng sống còn sau 5 năm là 28%, ở giai đoạn III - IV tỷ lệ là 10 %, giai đoạn di căn xa chỉ có 3%. Ghép gan là cách chữa bệnh cho gan khá hiệu quả. Bệnh nhân ghép gan hoặc ghép bất kỳ nội tạng nào khác đều phải uống thuốc chốngthải ghép".
Thuốc điều trị viêm gan B, C rất đắt (tùy loại thuốc có giá từ vài chục triệu đến trên một trăm triệu, chưa kể các chi phí xét nghiệm), trong khi số người có khả năng kinh tế không nhiều, vì thế, phòng bệnh là điều nên lưu ý.
BS Phạm Xuân Dũng hướng dẫn cách phòng bệnh cho gan như sau: "Chích ngừa viêm gan B (chích vắc xin cho bé sau khi sinh và những người chưa nhiễm bệnh), thay đổi lối sống, tránh ăn các loại thực phẩm có chứa nấm mốc aflatoxin, hạn chế uống rượu, bia, hút thuốc lá. Khi dùng thuốc cần tham khảo bác sĩ, vì có loại thuốc gây bệnh ở gan. Không để thừa cân, béo phì".
Virus viêm gan C lây truyền từ người bệnh sang người lành theo đường máu (truyền máu, dụng cụ y tế chưa được diệt khuẩn, dùng chung bơm kim tiêm, dụng cụ làm móng tay, bàn chải đánh răng...), vì thế cần có vật dụng riêng để phòng bệnh. Dùng bao cao su khi quan hệ tình dục để phòng lây truyền các bệnh qua đường tình dục, viêm gan B, C, HIV.


 Theo Phương Nam - Phụ nữ Online

Viêm gan C: Những hiểu lầm tai hại

Không ít người đã ngộ nhận viêm gan C là "đàn anh" của viêm gan B và phải mắc viêm gan B thì mới có nguy cơ bị viêm gan C. Vậy sự thực ra sao?

Một bệnh nhân khá lớn tuổi đến gặp tôi tại phòng khám viêm gan của bệnh viện đại học Y dược trong một tâm trạng rất lo lắng vì mới nhận được kết quả xét nghiệm Anti-HCV dương tính và men gan tăng. Ông kể cách đây 20 năm, ông bị xuất huyết tiêu hoá do loét dạ dày và đã được truyền hai đơn vị máu. Ông thắc mắc tại sao từ đó đến nay, vẫn cảm thấy khoẻ mạnh mà nay lại đột nhiên kết luận bị viêm gan siêu vi C mạn tính.

Viêm gan sao không vàng da?
Thật ra, mãi đến năm 1989, người ta mới phát hiện được những trường hợp bị viêm gan xảy ra sau khi truyền máu là do một loại siêu vi khuẩn được đặt tên là siêu vi viêm gan C gây ra (sau đây gọi tắt là viêm gan C). Chính vì vậy những trường hợp truyền máu trước năm 1990 như bệnh nhân nói trên vẫn có nhiều nguy cơ bị nhiễm viêm gan C. Đây là một loại siêu vi khuẩn có cấu tạo và khả năng gây bệnh hoàn toàn khác với siêu vi A và B. Do đó, không phải bị nhiễm siêu vi A hoặc B lâu ngày thì sẽ tiến triển thành siêu vi C. Người ta ước tính có khoảng hơn 200 triệu người đã bị nhiễm viêm gan C trên toàn thế giới.
Trước kia, viêm gan C chủ yếu lây qua đường truyền máu hoặc khi tiếp xúc trực tiếp với máu của bệnh nhân mà da niêm của chúng ta bị trầy xước hoặc bị đâm thủng. Hiện nay, nhờ các xét nghiệm tầm soát và sàng lọc ở những người cho máu nên tỷ lệ lây nhiễm sau truyền máu đã giảm đáng kể. Đường lây bệnh quan trọng hiện giờ là do dùng chung kim và ống tiêm. Hơn 60% những người chích xì ke đã bị nhiễm viêm gan C.
Ngoài ra, viêm gan C còn lây qua đường tình dục, từ mẹ truyền sang con trong lúc sinh nhưng mức độ lây nhiễm ít hơn viêm gan B gấp 10 lần. Ngoài ra, bệnh còn bị lây nhiễm do châm cứu, xâm mình, xỏ lỗ tai, dùng chung các vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo râu... của người bệnh. Vấn đề lây nhiễm trong bệnh viện cũng đáng được quan tâm (do phẫu thuật, nội soi, chữa răng, nạo thai... mà dụng cụ không được khử trùng đúng cách). Cũng nên lưu ý, có khoảng 20 - 40% trường hợp bị viêm gan C nhưng không biết nguồn lây rõ ràng.
Viêm gan C thường ít gây ra triệu chứng viêm gan cấp và điển hình cho nên đa số bệnh nhân không có triệu chứng rõ ràng. Nếu có, cũng là những triệu chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, chán ăn, rối loạn tiêu hoá, đau tức dưới sườn bên phải. Rất ít khi có vàng da. Việc phát hiện bệnh thường là tình cờ khi đi xét nghiệm máu hoặc kiểm tra sức khoẻ. Nhiều lúc, bệnh cứ tiến triển âm thầm đến khi phát hiện thì đã bị xơ gan hoặc ung thư gan. Do vậy, việc khám sức khoẻ và xét nghiệm máu định kỳ là rất cần thiết để phát hiện bệnh sớm.
Viêm gan C có điều trị hết?
Một trong những đặc điểm quan trọng của viêm gan C là đa số bệnh nhân sẽ không có khả năng loại trừ siêu vi ra khỏi cơ thể và họ sẽ trở thành người nhiễm viêm gan C mạn tính. Trong số đó, 25% bệnh nhân có men gan hoàn toàn bình thường trong nhiều năm và họ được gọi là "người mang siêu vi C mạn tính không triệu chứng".
Số bệnh nhân còn lại có viêm gan mạn tính tiến triển chậm, men gan có lúc tăng, lúc giảm về bình thường. Do vậy, bệnh nhân thường chủ quan không chịu theo dõi bệnh thường xuyên. Sau 10 - 20 năm, ít nhất có 20% số bệnh nhân viêm gan C mạn tính tiến triển sang xơ gan rồi thành ung thư gan. Xơ gan có thể xảy ra sớm hơn nếu như bệnh nhân uống rượu nhiều hoặc bị nhiễm thêm các loại siêu vi khác như siêu vi B, D, HIV...
Một điều may mắn là bệnh viêm gan C có thể chữa thành công trên 50% trường hợp nếu được điều trị đúng cách. Phác đồ điều trị tối ưu hiện nay là sử dụng kết hợp Peg-interferon (Pegasys hoặc Peg-Intron) với ribavirine. Peg-interferon là loại thuốc dùng tiêm dưới da, mỗi tuần một lần. Còn ribavirine là loại thuốc uống mỗi ngày. Thời gian điều trị phải kéo dài từ 6 đến 12 tháng tuỳ từng trường hợp. Trước kia, người ta dùng loại thuốc interferon thông thường, tiêm ba lần mỗi tuần, có chi phí thấp hơn nhưng chỉ đạt được hiệu quả dưới 30%.
Quá trình điều trị có thể sẽ đem lại một số tác dụng phụ. Interferon có thể gây các triệu chứng giống cảm cúm như mệt mỏi, sốt, ớn lạnh, đau xương khớp, đau mình mẩy. Các triệu chứng này chỉ xảy ra trong vài tuần đầu điều trị. Ngoài ra, bệnh nhân còn bị chán ăn, rụng tóc, trầm cảm, giảm số lượng các tế bào máu... Ribavirine gây ho, ngứa, mất ngủ, thiếu máu, có thể ảnh hưởng đến thai cho nên tuyệt đối phải áp dụng các phương pháp ngừa thai trong suốt thời gian điều trị. Tuy nhiên, các tác dụng phụ này có thể được khắc phục bằng những biện pháp điều trị bổ sung và nâng đỡ thể trạng. Tuỳ từng loại triệu chứng mà các bác sĩ sẽ có những cách điều trị thích hợp.
Người bệnh cũng cần thực hiện một chế độ ăn uống điều độ và cân đối. Không nên kiêng khem quá mức sẽ gây suy dinh dưỡng. Rượu bia cần phải hạn chế. Nếu đã bị xơ gan thì phải bỏ rượu hoàn toàn. Các sinh hoạt thông thường hàng ngày vẫn nên tiếp tục. Cần tập thể dục, thể thao vừa sức để tăng cường sức khoẻ.
Có thể phòng ngừa viêm gan C?
Rất tiếc là bệnh viêm gan C hiện không có thuốc chủng ngừa, do vậy các biện pháp phòng ngừa chủ yếu là ngăn chặn sự lây lan của siêu vi theo đường máu hoặc tiếp xúc với da niêm như không chích xì ke, không dùng chung kim và ống tiêm, không dùng chung các vật dụng cá nhân dễ gây chảy máu như bàn chải đánh răng, dao cạo râu, kìm cắt móng tay... Người bị viêm gan C tuyệt đối không được hiến máu. Viêm gan C không lây lan qua đường ăn uống và các tiếp xúc thông thường nên không cần thiết phải ăn uống riêng hoặc cách ly người bệnh.

 
 Theo SGTT

Phòng ngừa bệnh gan nhiễm mỡ

Gan nhiễm mỡ là bệnh phổ biến của cuộc sống hiện đại. Gan nhiễm mỡ về lâu dài sẽ là điều kiện dễ dẫn đến bệnh xơ gan và ung thư gan.

Theo TS.BS.Phan Huy Anh Vũ, Giám đốc BVĐK Đồng Nai, gan nhiễm mỡ là sự tích lũy chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của gan hoặc quan sát dưới kính hiển vi thấy nhiều hơn 5% số tế bào gan chứa các hạt mỡ.
 Gan nhiễm mỡ và nguyên nhân
Bệnh gan nhiễm mỡ có thể xảy ra ở cả nam và nữ, ở nhiều độ tuổi. Nhưng thông thường, tỷ lệ nam giới bị gan nhiễm mỡ nhiều hơn nữ giới. Hiện Việt Nam có khoảng 10-25% dân số bị gan nhiễm mỡ. Người béo bụng, béo phì có nguy cơ mắc gan nhiễm mỡ cao gấp 4-5 lần so với những người có số cân và vòng bụng ở mức trung bình.
Xét nghiệm máu là cách nhanh nhất để phát hiện gan nhiễm mỡ.Ảnh: P.Liễu
Xét nghiệm máu là cách nhanh nhất để phát hiện gan nhiễm mỡ.Ảnh: P.Liễu
Nghiện rượu, béo phì, tiểu đường, thiếu hụt dinh dưỡng, nuôi ăn qua đường tĩnh mạch, những rối loạn di truyền về ôxy hóa acid béo, các bệnh gan khác (viêm gan C mãn tính) cùng một số bệnh hệ thống như viêm ruột, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (như HIV-AIDS…) là những bệnh tạo điều kiện hình thành bệnh gan nhiễm mỡ.
Trước đây, gan nhiễm mỡ được xem là vô hại, nhưng thời gian gần đây nó đã được xác định là bệnh và là tác nhân chính đưa nhanh đến bệnh xơ gan, thậm chí ung thư gan. 
Do có tình trạng lắng đọng mỡ tại gan xảy ra từ từ nên các biểu hiện của nó thường không rõ ràng. Nhưng siêu âm, xét nghiệm máu hoặc chụp cắt lớp sẽ dễ dàng phát hiện. Tuy nhiên, bệnh vẫn có những triệu chứng như mệt mỏi, đau tức hoặc nặng vùng gan. Nặng  hơn khi có đau bụng, vàng da, buồn nôn, gan to.
Điều trị và phòng bệnh
Trước đây, bệnh gan nhiễm mỡ thường gặp ở người lớn tuổi thì nay nhiều người trẻ đã mắc bệnh, thậm chí trẻ con béo phì cũng bị gan nhiễm mỡ. Nguyên nhân là do đời sống kinh tế phát triển, nhiều người có thói quen ăn nhiều nhưng ít vận động. Các chuyên gia y tế cảnh báo gan nhiễm mỡ là bệnh của thế kỷ 21. 
Điều trị bệnh gan nhiễm mỡ, trước hết phải điều trị những yếu tố nguyên phát như gan bị hủy hoại do ngộ độc thuốc, các bệnh liên quan đến gan như viêm gan siêu vi B, C… sau đó mới điều trị các yếu tố thứ phát thông qua chế độ ăn uống, sinh hoạt, vận động hợp lý.
Chế độ ăn uống hợp lý là biện pháp quan trọng nhất trong phòng tránh bệnh gan nhiễm mỡ. Nên giảm ăn các thực phẩm giàu cholesterol như các loại phủ tạng động vật, da động vật, lòng đỏ trứng, hạn chế chất béo động vật. 
Có thể thay thế bằng chất béo thực vật, hạn chế ăn các món chiên, rán, tăng cường các thực phẩm có nhiều chất xơ như rau củ quả, giảm chất đạm từ thịt thay bằng tôm, cua, cá, sử dụng sữa ít béo; ăn uống điều độ, đúng bữa, đúng giờ, hạn chế tối đa rượu bia vì đây là nguyên nhân quan trọng gây nên bệnh gan nhiễm mỡ và rất nhiều bệnh gan khác; thường xuyên theo dõi sức khỏe, kiểm tra đường huyết, cholesterol, triglycerid trong máu định kỳ 6 tháng một lần để sớm phát hiện bệnh tiểu đường; thận trọng khi dùng thuốc.
Ngoài ra, cần có chế độ vận động, tập luyện thể thao hợp lý để giữ cân nặng ở mức chuẩn. Mỗi ngày nên dành 30 phút để tập luyện thể thao. Đặc biệt là nam giới, nhiều người buổi sáng không ăn mà chỉ uống cà phê, trưa ăn ít, chiều tối dồn cả vào bữa nhậu. Lượng thức ăn đưa vào cơ thể nhiều và lại là buổi tối nên lượng mỡ đào thải từ gan rất hạn chế, sẽ tích tụ dần dần, dẫn đến lượng mỡ thừa trong gan quá cao, gây ra bệnh.

 Theo Phương Liễu - Đồng Nai online 
 
 

Viêm gan, sao da không vàng?

Vàng mắt, vàng da là dấu hiệu điển hình của bệnh gan. Thế nên rất nhiều người được chẩn đoán viêm gan C đã ngớ người không tin nổi: “Sao da tôi không vàng”.

Da không vàng thì đỡ xấu, nhưng nó lại cũng là điều không hay đối với bệnh này, bởi virus vẫn âm thầm hủy hoại gan mà chủ nhân không hề biết.

Phần lớn những người nhiễm virus viêm gan C không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt. Một số bệnh nhân cũng thấy mệt mỏi, chán ăn, rối loạn tiêu hóa hay đau tức sườn bên phải. Những triệu chứng này không điển hình cho một bệnh trạng nào và thỉnh thoảng vẫn gặp cả ở người khỏe mạnh nên bệnh nhân không để ý, hoặc chỉ quan tâm đến đường ruột chứ không nghĩ đến gan. Đặc biệt, có rất ít người nhiễm viêm gan C bị vàng da. Do đó, rất nhiều người khi biết bị viêm gan C thì tình trạng đã nặng, như xơ gan, ung thư gan. Một số khác biết sớm hơn một cách tình cờ khi xét nghiệm máu hay kiểm tra sức khỏe vì lý do khác.

Cứ 100 người nhiễm virus viêm gan C thì 85% người sẽ chuyển thành viêm gan mạn tính, tức là cơ thể không đào thải được virus sau 6 tháng. Kể từ đó, virus cứ âm thầm gây những tổn thương cho gan, để 10 – 30 năm sau xuất hiện những bệnh cảnh nghiêm trọng có thể gây chết người như xơ gan cổ trướng, giãn mạch máu đường tiêu hóa (nếu vỡ mạch sẽ tử vong do chảy máu ồ ạt, ung thư gan.

Do đó, để không bị viêm gan C “phục kích” và hạ gục, bạn nên tầm soát bệnh bằng cách định kỳ khám sức khỏe và xét nghiệm máu. Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy men gan tăng thì chứng tỏ tế bào gan đang bị hủy hoại. Nếu trong máu bạn có kháng thể chống virus viêm gan C thì chứng tỏ bạn từng bị mầm bệnh này xâm nhập khiến cơ thể phải phản ứng lại, tuy nhiên không khẳng định được hiện tại bạn đã thực sự có bệnh hay chưa. Để biết chắc, bạn phải làm tiếp xét nghiệm tìm virus này trong máu.

Nếu kết quả cho thấy đúng là bạn nhiễm virus viêm gan C, bác sĩ sẽ phải thực hiện xét nghiệm đánh giá chức năng gan xem đã bị tổn hại đến đâu, siêu âm để phát hiện xơ gan hay các bất thường khác. Còn thủ thuật sinh thiết gan sẽ giúp bác sĩ quan sát tế bào gan dưới kính hiển vi, xác định mức độ viêm nhiễm, giai đoạn bệnh, đánh giá hiệu quả điều trị.

(Theo Hạnh Lâm - Báo Đất Việt)

Bước tiến mới trong điều trị viêm gan B mạn tính

Phương pháp mới tập trung vào việc cá nhân hóa trong điều trị, đánh giá tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân.

Viêm gan B là bệnh khá phổ biến vì dễ lây, có nguy cơ dẫn đến xơ gan và ung thư gan cao. Vấn đề hàng đầu đặt ra cho ngành y tế là làm sao để quản lý căn bệnh này hiệu quả. 

Do vậy, Hội Gan mật Việt Nam và Hội Gan mật TP.HCM phối hợp với một số đơn vị tổ chức hội thảokhoa học thường niên bệnh viêm gan lần thứ IV. Nội dung tập trung về những tiến bộ trong ngành xét nghiệm để quản lý bệnh viêm gan, đặc biệt là viêm gan B mạn tính.

Xét nghiệm… là biết gan có chuyện

GS Phạm Hoàng Phiệt, Chủ tịch Hội Gan mật TP.HCM, cho biết xét nghiệm đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong việc kiểm soát bệnh, từ chẩn đoán sớm đến quản lý và theo dõi trong quá trình điều trị. Thông thường, khoảng 80% người bệnh sẽ không nhận ra bất kỳ triệu chứng đặc biệt nào cho đến khi gan bị tổn thương nghiêm trọng. Vì vậy, đa số bệnh nhân thường được chẩn đoán và chữa trị vào giai đoạn muộn. 

Nhiều người trong số họ thậm chí còn không biết bản thân mình đã bị nhiễm bệnh, thường bỏ qua những biểu hiện ban đầu của bệnh. Điều đó có thể khiến bệnh tiến triển nhanh hơn, khó điều trị và tỉ lệ tử vong cao. Hậu quả là ảnh hưởng tới việc điều trị, tốn kém và hiệu quả thấp. Đây là một trong những bất cập lớn tại Việt Nam, quốc gia có khoảng 15%-20% dân số bị nhiễm virus viêm gan B.

Sử dụng dụng cụ không tẩy trùng khi làm răng, xăm mình, xỏ khuyên... là một trong những nguyên nhân lây nhiễm viêm gan B. Ảnh: ST

Hiện nay việc chẩn đoán bệnh được thực hiện bằng xét nghiệm máu, áp dụng cho cả những người không biểu hiện triệu chứng. 

Ngoài ra, xét nghiệm HBsAg cũng được thực hiện để xác nhận sự có mặt của kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B. Ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy với bệnh nhân viêm gan B mạn tính, nồng độ HBsAg (kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B) tương quan gián tiếp với sự kiểm soát lây nhiễm. Mức HBsAg càng thấp thì sự kiểm soát lây nhiễm càng cao. 

Do vậy, đo lường số lượng HBsAg có thể giúp đánh giá việc cơ thể loại bỏ virus khỏi gan. Qua đó, bác sĩ xác định liệu cơ thể có đáp ứng với điều trị hay không. Đồng thời, các xét nghiệm HBV DNA được thực hiện để đo tải lượng virus có trong cơ thể, giúp xác định tốc độ virus nhân lên nhanh như thế nào.

Kiểm soát tình trạng miễn dịch của bệnh nhân

Tại hội thảo, các chuyên gia đã trình bày phương pháp xét nghiệm miễn dịch Roche Elecsys® HBsAg II định lượng. Đây là bước tiến mới trong việc cá nhân hóa điều trị viêm gan B mạn tính. Xét nghiệm này đo lường số lượng HBsAg trong máu. 

Điều đó giúp các bác sĩ đánh giá được tình trạng kiểm soát miễn dịch của bệnh nhân; nguy cơ tiến triển từ viêm gan B sang bệnh xơ gan và ung thư gan. Từ đó thay đổi cách thức xử trí của bác sĩ đối với bệnh nhân viêm gan B mạn tính và đưa ra phương pháp điều trị phù hợp.

Ngoài ra, bệnh này còn lây truyền từ mẹ sang con; dùng chung kim tiêm với người bệnh; nhận máu truyền từ người bệnh; sinh hoạt tình dục; dụng cụ không tẩy trùng như khi làm răng, xăm mình, xỏ khuyên cơ thể... Khi mắc bệnh, một số người không biểu hiện triệu chứng nào cho đến khi gan bị tổn thương nghiêm trọng. Nếu có, bạn cần để ý một số triệu chứng như vàng da hoặc vàng mắt; nước tiểu sậm màu; mệt mỏi, uể oải; buồn nôn; ói mửa…

TS Đinh Quý Lan, Chủ tịch Hội Gan mật Việt Nam, chia sẻ: “Mục đích sau cùng của việc điều trị bệnh viêm gan B mạn tính là nhằm làm sạch hoàn toàn HBsAg. 

Hiện nay chúng ta có hai xét nghiệm bổ trợ nhau trong việc theo dõi điều trị bệnh viêm gan B mạn tính mà khi sử dụng kết hợp, cả hai xét nghiệm này sẽ giúp xác định liệu bệnh nhân có đáp ứng tốt với phương pháp điều trị hiện tại hay không và từ đó có thay đổi phù hợp. 

Những số liệu gần đây chứng minh cho thấy việc làm sạch HBsAg sẽ góp phần giảm sự tiến triển bệnh sang giai đoạn xơ gan và ung thư gan, do đó giúp người bệnh sống lâu hơn cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống của họ”.

Thống kê cho thấy gần 1/3 dân số thế giới từng bị nhiễm virus viêm gan B và khoảng 350 triệu người (5%) hiện đang bị viêm gan B mạn tính. Tại Việt Nam, lây nhiễm là nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh gan mạn tính, có tỉ lệ cao. Từ mức 6,4 triệu trường hợp vào năm 1990 lên 8,4 triệu trường hợp ở năm 2005. Nếu không tiêm phòng, con số này dự kiến sẽ tiếp tục tăng đến hơn 10 triệu vào năm 2025


Theo Pháp luật TPHCM

Viêm gan B và C, những điều cần biết

Viêm gan là bệnh phổ biến, dễ dẫn đến xơ gan, ung thư gan sau này.

Hiện Việt Nam đã xác định được 6 chủng virus viêm gan (virus A, B, C, D, E và G), trong đó viêm gan do virus B (HBV) và viêm gan do virus C (HCV) là nguy hiểm nhất.
Mới đây, BS Hà Văn Thiệu, Phó khoa nội (Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai) đã thực hiện đề tài nghiên cứu về thực trạng nhiễm virus viêm gan B và C tại các trường mầm non tỉnh Đồng Nai với 586 mẫu khảo sát từ các trường mẫu giáo trên địa bàn Biên Hòa, Long Thành và Định Quán.
Từ nghiên cứu cho thấy, trong số 586 trẻ dưới 6 tuổi thì tỷ lệ trẻ nhiễm viêm gan B dương tính là 1,02%, tỷ lệ viêm gan C là 0,85%. Đặc biệt, trong đó có những trẻ đã tiêm ngừa viêm gan B và C nhưng vẫn bị viêm gan B và C dương tính. Tỷ lệ mẫu có kết quả viêm gan B dương tính ở huyện Định Quán là 50%, tại TP. Biên Hòa 33,3% và huyện Long Thành là 16,6%.
Lây truyền bệnh từ mẹ sang con
Trong 3 đường lây truyền bệnh viêm gan B và C, nghiên cứu của bác sĩ Thiệu cũng cho thấy tỷ lệ trẻ bị lây truyền bệnh viêm gan B và C từ mẹ sang con chiếm phần lớn so với hai đường lây truyền còn lại.
Nếu mẹ bị viêm gan B mà mang thai thì sự lây truyền bệnh sang thai nhi phụ thuộc vào thời điểm nhiễm bệnh của mẹ và kết quả phản ứng huyết thanh. Tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con chỉ 1% nếu mẹ bị bệnh trong 3 tháng đầu của thai kỳ; 10% ở 3 tháng giữa thai kỳ và 90-100% nếu mẹ bị nhiễm vào 3 tháng cuối thai kỳ.
 
Nguy cơ mẹ truyền bệnh cho con có thể lên tới 90% nếu không có biện pháp bảo vệ ngay sau khi sinh. Tỷ lệ trẻ bị viêm gan B cấp ngay sau khi sinh là 5-7% và không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên, những bà mẹ mang thai bị nhiễm bệnh, thai vẫn tiến triển bình thường, thai nhi phát triển tốt và không có nguy cơ bị dị dạng thai nhi, ngoại trừ mẹ bị viêm gan nặng ở 3 tháng cuối thai kỳ thì mới có nguy cơ sinh non.
Phòng ngừa lây truyền bệnh
Theo BS Hà Văn Thiệu, do bệnh viêm gan lây truyền theo 3 đường, việc phòng ngừa bệnh viêm gan B và C cần thực hiện theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang.
- Phòng lây nhiễm theo chiều dọc từ mẹ sang con. Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên tiêm ngừa trước khi có thai. Đối với  những bà mẹ đã mang thai cần được tầm soát xét nghiệm viêm gan B để có những chỉ định điều trị. Nếu mẹ bị viêm gan siêu vi B thì trẻ sơ sinh được tiêm HBIG (globulin miễn dịch) ngay sau khi sinh và sau đó tiêm vaccine viêm gan B theo lịch chương trình.
- Phòng lây nhiễm theo chiều ngang, đó là lây nhiễm trong cộng đồng. Người dân cần được xét nghiệm phát hiện nhiễm HBV sớm, nhất là phụ nữ có thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, trẻ sơ sinh, những đối tượng có nguy cơ cao... để kịp thời dự phòng đặc hiệu; phát hiện và có biện pháp quản lý những người mang bệnh viêm gan B mạn tính trong gia đình và cộng đồng, hạn chế sự lây nhiễm cho người thân và cộng đồng. Đặc biệt là việc thực hiện tiêm phòng viêm gan B và C cho trẻ em để tránh tình trạng trẻ bị lây nhiễm, dẫn đến những bệnh xơ gan, ung thư gan sau này.
 (Theo Đồng nai online)

Viêm gan siêu vi B: Sát thủ thầm lặng

Trên thế giới, mỗi năm có hơn một triệu người chết vì bệnh viên gan siêu vi B (VGSV B). Riêng ở Việt Nam, tỷ lệ người mang mầm bệnh chiếm hơn 8% dân số.

Người nhiễm phải siêu vi B (HBV) có thể biểu hiện ở dạng bệnh cấp tính, hay mạn tính kéo dài trong nhiều năm. Một số trường hợp biến chứng sang giai đoạn nguy hiểm như xơ gan, ung thư gan.

Nhiều triệu chứng nhưng không rõ ràng
Thời kỳ ủ bệnh của VGSV B vào khoảng 4-28 tuần. Trong số 10%–20% bệnh nhân VGSV B cấp có vàng da - mắt, có các biểu hiện bệnh lý huyết thanh như phát ban đỏ ngoài da, ngứa, đau cơ - khớp, đôi khi sốt… kéo dài từ vài ngày đến vài tuần trước khi có biểu hiện ở gan.

Các dấu hiệu này kéo dài khoảng 2–10 ngày thì biến mất không để lại di chứng, một số ít trường hợp có thể kéo dài trong nhiều tuần đến nhiều tháng.

Về phương diện lâm sàng, VGSV B cấp rất khó phân biệt với các loại VGSV khác (như nhiễm HAV, HCV, EBV, CMV, sốt vàng…). Diễn tiến lâm sàng trong từng trường hợp VGSV B cấp rất khó phân biệt với VGSV A cấp.

Mức độ trầm trọng của bệnh cũng thay đổi, đa số trường hợp không có triệu chứng rõ rệt. Cần lưu ý là một số trường hợp bệnh nhân không có dấu hiệu lâm sàng nhưng khi làm xét nghiệm thì men gan AST/ALT gia tăng rất dữ dội.

Biểu hiện lâm sàng của VGSV B cấp có thể nhẹ, không vàng da-mắt, cũng có thể trầm trọng với vàng da-mắt. Điển hình là nhức đầu, mệt mỏi, ăn uống kém, nôn ói, sốt nhẹ (3705-390), đôi khi có lạnh run vào thời gian đầu… Các dấu hiệu này hiện diện khoảng 2-7 ngày trước khi vàng da, vàng mắt xuất hiện.

Nước tiểu đậm màu và phân lại nhạt màu. Vào giai đoạn vàng da-mắt, triệu chứng vừa kể trên vẫn còn tiếp diễn, không thay đổi nhưng mức độ có thể nhẹ hơn, vàng da-mắt trở nên rõ ràng và đậm màu.

Các dấu hiệu này ở trẻ em kéo dài trung bình khoảng 2 tuần và người lớn vào khoảng 4-6 tuần.

Chú ý những rối loạn thần kinh

Hầu hết các trường hợp VGSV B cấp có diễn tiến lâm sàng tốt không để lại dư chứng gì trầm trọng. Một số nhỏ trường hợp có thể kèm theo rối loạn tâm – thần kinh, rối loạn huyết học, loạn nhịp tim.

Thông thường trong đa số trường hợp nhiễm HBV không có vàng da – vàng mắt và VGSV B cấp là bệnh tự phục hồi. Tử vong thường có liên quan với các thể vàng da – vàng mắt.

Riêng viêm gan tối cấp là thể trầm trọng nhất với xuất huyết, rối loạn thần kinh, gan teo nhỏ… Bệnh này có thể gây tử vong cao. Đôi khi tử vong xảy ra trước khi vàng da – mắt xuất hiện, một nữa trường hợp tử vong trong vòng 10 ngày kể từ có triệu chứng đầu tiên, 3/4 tử vong trong vòng 3 tuần.

Bệnh cảnh tổn thương não với suy gan, rối loạn thần kinh, lú lẩn, lơ mơ, hôn mê, co giật,… Tiểu ít, phù nề, báng bụng… là những biểu hiện rất thường gặp.

Các trường hợp nhiễm trùng phối hợp HBV và HDV làm cho nguy cơ diễn tiến sang tối cấp rất cao.

Một thể bệnh khác của VGSV B là thể kéo dài. Thể này rất khó phân biệt với VGSV B mạn tính. VGSV B tái phát sau một hoặc nhiều đợt viêm gan có thể do bệnh nhân uống rượu, hoạt động nặng quá sớm hoặc dùng Corticoid trong giai đoạn cấp.

Cần kiểm soát lây nhiễm siêu vi B

Biện pháp quan trọng nhất và hiệu quả nhất để kiểm soát lây nhiễm HBV là ngăn ngừa tiếp xúc với HBV trong môi trường và vệ sinh cá nhân. Cụ thể tránh tiếp xúc qua da, qua niêm mạc với máu và dịch tiết có chứa HBV.

Đối với vợ chồng chung sống trong cùng một gia đình hoặc những người có quan hệ thân mật với người mang HBsAg (+) là những đối tượng nguy cơ bị lây nhiễm HBV.

Thành viên trong gia đình có người mang HBsAg (+) nếu kiểm tra thấy HBsAg (-) hoặc anti-HBs (-) đều cần được chủng ngừa.

Bệnh nhân mang HBsAg (+), có thể nằm trong bệnh cảnh VGSV B cấp hoặc mạn tính, không nhất thiết phải cách ly biệt lập ở trong các phòng bệnh.

Tuy nhiên điều cần lưu ý là máu và dịch tiết của họ là những nguồn lây cho cộng đồng. Tất cả vật dụng bị hoại nhiễm của họ cần được xử lý thích hợp để phòng chống lây lan. 
 
AloBacsi.vn (Theo Tiền phong)

Chăm sóc gan khỏe mạnh

Một lá gan hoạt động đúng chức năng của nó rất cần thiết cho chúng ta. Gan giúp thải độc khỏi cơ thể và thẩm thấu các chất bỗ dưỡng từ thực phẩm mà bạn ăn.

Thế nên, thực gan hoạt động tốt và làm những gì bạn có thể để tránh các bệnh gan hoặc suy gan là khá quan trọng. Dưới đây là một vài điều bạn nên làm để duy trì sự khỏe mạnh cho gan.

Tiêm vaccin cần thiết
Có rất nhiều loại bệnh ảnh hưởng đến gan. Hiện nay đã có vắc-xin tiêm ngừa cho viêm gan A và B. Các vắc-xin này phù hợp cho hầu hết mọi người, nhưng đặc biệt quan trọng đối với những người có hệ thống miễn dịch kém. Tiêm ngừa các văc-xin đúng thời điểm và bất cứ khi nào yêu cầu của bác sĩ giúp duy trì một gan khỏe mạnh và cũng giúp bạn đi từ các bệnh đe dọa tính mạng.
Kiểm tra thuốc men bạn uống
Một số loại thuốc như acetaminophen, có thể đạt đến mức độ độc hại cho gan nếu không uống đúng cách hoặc uống cùng với rượu. Theo các báo cáo của Cleveland Clinic, dùng thuốc quá liều acetaminophen là nguyên nhân phổ biến nhất của suy gan cấp tính. Tránh uống rượu trong khi bạn đang dùng thuốc và đọc kĩ hướng dẫn với thuốc.
Bỏ rượu
Để gia tăng tuổi thọ của lá gan, bạn nên ngừng uống rượu hoàn toàn. Theo thời gian, rượu có thể gây ra bệnh xơ gan, và cách duy nhất để khắc phục vấn đề là ghép gan. Rượu, ngay cả khi tiêu thụ với số lượng vừa phải vẫn có thể có một tác động tiêu cực đối với sức khỏe của gan.
Thực hành tình dục an toàn
Thực hiện tình dục an toàn sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh viêm gan B và viêm gan C. Khi bạn bị nhiễm virus viêm gan B, vi rút di chuyển trong máu đến gan của bạn. Một khi đã xâm nhập vào bên trong, virus vào tế bào gan khỏe mạnh và trở thành một phần của tế bào. Virus sẽ nhân bản và làm lây lan vi rút đến nhiều tế bào gan hơn. Sử dụng bao cao su khi có hoạt động tình dục, bao gồm cả tình dục bằng miệng.
Tránh hít các chất độc
Gan loại bỏ các độc tố khỏi cơ thể của bạn. Do đó, tiếp cận với chất độc có thể làm giảm chức năng hoạt động của gan. Để bảo vệ gan của bạn, điều quan trọng là tránh để thuốc trừ sâu hoặc các hóa chất độc hại khác tiếp xúc trực tiếp trên da của bạn.


Theo Tạp chí Đàn ông

Gan nhiễm mỡ: bệnh đáng lo?

Gan nhiễm mỡ, hay còn gọi là thoái hóa mỡ gan là sự tích lũy chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của gan. Tùy theo nguyên nhân gây bệnh mà lượng mỡ tích tụ trong gan sẽ khác nhau. Bệnh gan nhiễm mỡ nếu không được điều trị tốt sẽ diễn biến từ gan nhiễm mỡ sang viêm gan do mỡ, có thể dẫn đến xơ gan.
 
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet
Có nhiều nguyên nhân làm cho gan nhiễm mỡ:
- Gan nhiễm mỡ do rượu: đây là nguyên nhân hàng đầu trong việc gây nên tình trạng gan nhiễm mỡ.
- Gan nhiễm mỡ không do rượu, gồm: gan nhiễm mỡ do dinh dưỡng; gan nhiễm mỡ do nội tiết, do bệnh tiểu đường; gan nhiễm mỡ do hóa chất như nhiễm độc phospho, arsenic, chì; gan nhiễm mỡ do miễn dịch; gan nhiễm mỡ do dùng một số loại thuốc có thể dẫn đến bệnh như các loại corticoid, tetracyclin, các thuốc chữa ung thư, các hormone sinh dục nữ...
Gan nhiễm mỡ tuy lành tính, nhưng tỷ lệ phát sinh xơ hóa cao đến 25%, có khoảng 1,5 - 8% người bệnh có thể phát sinh xơ gan. Khi gan nhiễm mỡ phát sinh xơ gan, bệnh nhân có biểu hiện báng bụng; giãn tĩnh mạch thực quản; xuất huyết tiêu hóa, dưới da; sau cùng đưa đến tử vong. Gan nhiễm mỡ cấp tính có thể do thuốc, ngộ độc, thai nghén... tỷ lệ tử vong rất cao.
 
Hầu hết trường hợp gan nhiễm mỡ mạn tính nếu sớm phòng và điều trị, có thể hạn chế phát triển thêm, thậm chí còn có thể “xoay ngược tình thế”.
Phòng và điều trị gan nhiễm mỡ
Cần tránh uống rượu bia nhiều, ăn thức ăn nhiều đạm và vitamin, nhưng hạn chế ăn nhiều đường và mỡ, đặc biệt mỡ động vật, tập thể dục thường xuyên (mỗi lần tập luyện 30 phút, tuần trên ba lần). Trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc nào, nhất là các thuốc có khả năng gây độc cho gan nói chung và khả năng gây nên bệnh lý gan nhiễm mỡ nói riêng, cần có ý kiến của bác sĩ.
- Điều trị thường theo nguyên nhân gây ra bệnh gan nhiễm mỡ: điều trị viêm gan do virus nếu có; nếu có bệnh lý rối loạn lipid, đường máu thì sử dụng các thuốc chống tăng mỡ máu hoặc các thuốc chống tiểu đường nhằm góp phần làm giảm tình trạng gan nhiễm mỡ.
 
Theo Phụ nữ TPHCM

Nguyên tắc bảo vệ gan

Sự sống một phần phụ thuộc vào gan bởi gan được ví như “nhà máy xử lý rác thải, nơi chế biến thực phẩm và là thiên thần hộ mệnh”.

Tuy nhiên, lối sống hiện đại với ô nhiễm không khí, phụ gia thực phẩm, uống nhiều rượu và căng thẳng khiến cho cơ quan quan trọng này đôi khi có thể bị tổn thương vĩnh viễn.
Với trọng lượng khoảng 1,36kg, màu nâu đỏ, nằm ở phía bên phải của bụng, bên dưới cơ hoành, gan là cơ quan nội tạng lớn nhất của cơ thể cũng là cơ quan đảm nhiệm công việc khó khăn nhất. Vậy gan có chức năng gì? 

Đánh tan chất béo, tạo mật - hỗ trợ tiêu hóa, tạo ra heparin - một chất có thể ngăn chặn máu đông, chuyển đổi glucose thành glycogen, hình thành urê (chất chính của nước tiểu), sản xuất khoảng 80% cholesterol trong cơ thể, dự trữ vitamin và khoáng chất ở dạng nhiên liệu, lọc các chất có hại từ máu, có thể sưng lên để chứa một lượng lớn máu trong trường hợp khẩn cấp, điều hòa nhiệt đến khu vực ít hoạt động của cơ thể…
 
Đó chỉ là một số hoạt động tiêu biểu trong số hơn 500 chức năng mà gan thực hiện không ngừng, ngày này qua ngày khác. Còn một điều kỳ diệu nữa, gan có khả năng tái sinh: 3/4 gan có thể gỡ bỏ và phát triển trở lại chỉ trong vài tuần. Bởi thế, tăng cường bảo vệ gan, thông qua đó chính là để cân bằng trọng lượng và kiểm soát sức khỏe tổng thể.
 
Dưới đây là những nguyên tắc cơ bản để bảo vệ gan:

-  Gan “yêu” thực phẩm giàu chất chống ôxy hóa, thích rau dạng hấp, hoa quả, trái cây tươi, đồng thời “ghét” rượu, cà phê, thuốc kháng sinh không cần thiết…

-  Gan khá vất vả với việc lọc chất phụ gia thực phẩm. Bởi vậy, loại bỏ các thực phẩm chế biến, phụ gia thực phẩm nhân tạo và chất bảo quản cũng là cách tạo điều kiện cho gan nghỉ ngơi, “hồi sức”.

-  Nên ăn nhiều cà rốt và củ cải đỏ, cả hai loại đều có tác dụng làm sạch gan. Ngoài ra, ăn nhiều các loại thực phẩm màu xanh lá cây bởi chất diệp lục cũng giúp làm sạch gan. Điều đặc biệt là, rau xanh có vị đắng cũng có công dụng tương tự.

-  Có nhiều loại thảo mộc tuyệt vời giúp tăng cường gan như rễ bồ công anh, atisô, củ nghệ… Riêng phụ nữ mang thai hay người có bệnh nặng đang dùng thuốc trước khi sử dụng các loại thảo mộc cần tham khảo ý kiến bác sỹ.

-  Chú ý giảm đáng kể đường tinh luyện và chất tạo ngọt tổng hợp.

-  Lecithin giúp gan chuyển hóa chất béo và giảm cholesterol. Nó chứa một chất gọi là phosphatidylcholine cùng các axit béo thiết yếu giúp các tế bào gan khỏe mạnh và ngăn chặn chất béo lắng đọng trong gan. Lecithin cũng giúp làm giảm huyết áp cao khi cho phép các mạch máu thư giãn để máu lưu thông tốt hơn. Lecithin có nhiều trong sữa đậu nành và trứng hữu cơ.

-  Ăn nhiều tỏi, hành tây và súp lơ vì những thực phẩm này có chứa lưu huỳnh cần thiết cho các hoạt động tăng cường làm sạch gan. Nếu không có đủ lượng lưu huỳnh, giai đoạn 2 của giải độc gan không thể bắt kịp với mức độ 1, có nghĩa là chất độc có thể trở nên nguy hiểm hơn.

-  Tránh ăn các bữa ăn lớn. Thay vào đó, ăn các bữa nhỏ tạo điều kiện để tiêu hóa thức ăn.

-  Tránh ăn các loại thực phẩm béo vì điều này tạo thêm gánh nặng công việc cho gan.

-  Không nên ăn trong vòng 3 tiếng trước khi đi ngủ để cơ thể không bị rơi vào tình trạng trong lúc có cơ quan nghỉ ngơi thì một số quá trình khác vẫn phải làm việc cật lực, như tiêu hóa chẳng hạn.

-  Cuối cùng, thuốc giảm đau, thuốc cảm và thuốc ho không kê đơn thường chứa acetaminophen, một thành phần có thể phản ứng với rượu gây ra viêm gan cấp tính và nghiêm trọng, dẫn đến suy gan gây tử vong. Do đó, không bao giờ nên kết hợp hai chất này. Nếu nghi ngờ hãy hỏi dược sỹ hoặc bác sỹ mà bạn biết.

Theo An Ninh Thủ đô

Gan: “Chuyên gia” xử lý chất

Người có lá gan to hơn người bình thường, nếu siêu âm thường có kết quả gan bị nhiễm mỡ, nếu thêm xét nghiệm máu mà men gan tăng thì chứng tỏ gan đang bị bệnh!

“Chuyên gia” xử lý chất
Gan là một nhà máy thải độc của cơ thể. Người uống rượu, uống thuốc… có những chất không có lợi cho cơ thể sẽ được gan chuyển hóa thành chất thải để đưa ra ngoài theo đường bài tiết.
Ảnh: Internet
Theo BS Nguyễn Hữu Tùng - Tổng giám đốc Tập đoàn Y khoa Hoàn Mỹ thì gan còn tham gia quá trình ổn định nồng độ đường trong máu. Nếu lượng đường trong máu tăng, tụy tạng tiết insulin giúp gan đưa nồng độ đường trong máu về đúng chuẩn. Nếu trong máu thiếu đường, gan sẽ chuyển chất dự trữ thành đường để… máu “ngọt ngào” đủ độ cho phép để cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể. Gan còn chế tạo ra mật để tiêu hóa chất béo.
Chất đạm như thịt, cá, trứng… sau khi ăn vào sẽ được chuyển hóa thành dưỡng chất nuôi cơ thể. Nhưng quá trình này sẽ sinh ra “phế phẩm” và gan sẽ loại bỏ chúng ra khỏi cơ thể qua đường bài tiết.
Gan chứa mỡ
Thực chất, mỡ có mặt trong gan là chuyện bình thường. Nhưng sẽ bất thường khi mỡ (triglyxerid) hiện diện trong đó quá mức cho phép. Lúc này gan phình to hơn, màu vàng lợt đi. Tế bào gan làm nhiệm vụ giải độc khó khăn hơn vì mỡ ngăn đường cản lối.
Chỉ cần ngưng bia, rượu khoảng vài tuần lễ là tình trạng gan nhiễm mỡ đã cải thiện
Ảnh: GETTYIMAGES
Có nhiều nguyên nhân khiến gan “bó tay” để cho mỡ lấn đất giành dân như: rượu, béo phì, tiểu đường type 2, tăng mỡ máu, lao, viêm gan C mãn tính, dùng một số thuốc corticoid, thuốc chữa ung thư… Nếu nguyên nhân từ rượu thì phụ nữ dễ bị bệnh hơn nam giới, BS Nguyễn Ý Đức - Texas (Hoa Kỳ) giải thích: “Mỗi ngày tiêu thụ trên 60g rượu trong thời gian 10 năm là đủ gây ra bệnh gan nhiễm mỡ. Phụ nữ dễ bị bệnh này hơn nam giới dù chỉ dùng 1/3 số lượng rượu kể trên. Lý do là quý bà ít có loại men gan bảo vệ với sự hấp thu chất rượu ở dạ dày”.
Gan là nội tạng “to con” trong cơ thể, trọng lượng khoảng 1,4kg với khoảng 300 tỷ tế bào gan. Do “đô con” nên khả năng “hồi sức” rất nhanh, chịu đựng giỏi. Người bệnh hầu như không có triệu chứng gì, không ít người có cảm giác đau bụng âm ỉ ở hạ sườn phải, mệt mỏi, kém ăn. Nếu đi siêu âm sẽ phát hiện gan nhiễm mỡ, xét nghiệm máu có kết quả men gan tăng. Giai đoạn này, nếu có hướng điều trị, gan sẽ phục hồi.
Dù chịu đựng giỏi nhưng gan sẽ “kiệt sức” khi bị hủy 100% tế bào.
Nếu gan nhiễm mỡ không được điều trị, không thay đổi lối sống, bệnh sẽ đi vào ngõ cụt qua các giai đoạn: viêm gan, xơ gan, ung thư gan. Lúc này, bệnh nhân phải chịu đựng những cơn đau khủng khiếp, hôn mê… và chỉ sống khi được ghép gan.
Chăm sóc lá gan
Để gan khỏe mạnh, cần tiếp sức cho gan loại bỏ tế bào mỡ xâm lược bằng cách: ổn định đường huyết, cholesterol thông qua việc giảm cân, dùng chế độ ăn uống ít chất béo bão hòa (có nhiều trong mỡ bò, mỡ heo, nội tạng, gạch tôm cua…), không tự ý sử dụng thuốc. Riêng những người bị gan nhiễm mỡ do rượu thì cách tốt nhất là triệt từ gốc gây bệnh, tức là: cữ rượu. Theo BS Nguyễn Ý Đức thì chỉ cần ngưng rượu khoảng vài tuần là tình trạng nhiễm mỡ đã cải thiện. Sau đó, dinh dưỡng đầy đủ đúng cách, dùng thêm một số sinh tố nhóm B, khoáng chất (người nghiện rượu thường thiếu các chất này).
Có nhiều cách để biết “sức lực” của gan. BS Phan Thanh Hải - Trung tâm Medic cho biết: “Siêu âm tổng quát là phương thức nhanh và rẻ tiền nhất để biết gan đã nhiễm mỡ hay chưa. Xét nghiệm máu cũng cho biết tình trạng tế bào gan, nếu men gan tăng là tế bào đang… hư. Có thể nói, siêu âm và xét nghiệm máu là cặp bài trùng tìm bệnh ở gan. CT cũng biết được tình trạng gan nhưng khá tốn kém. Còn đo độ cứng của gan (cách thực hiện tương tự siêu âm, kết quả tương đương sinh thiết) cho biết độ xơ hóa của gan và sự cải thiện sau điều trị”.

Theo Vũ Âu - Phụ nữ TPHCM

Bưởi non chữa gan nhiễm mỡ

Gan nhiễm mỡ là hiện tượng mỡ trong tế bào gan tích tụ vượt quá lượng mỡ giới hạn phân bổ bình thường.

Bình thường gan chỉ chứa lượng mỡ khoảng 3 - 5% trong gan. Khi trong gan có 10 - 25% mỡ trong gan gọi là gan nhiễm mỡ.
 Bưởi non có tác dụng chữa gan nhiễm mỡ. Ảnh: IE.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến gan nhiễm mỡ như quá thừa dinh dưỡng, uống nhiều rượu, do uống thuốc, do nội tiết... Khi gan bị nhiễm mỡ làm ảnh hưởng đến chức năng của gan, gây chán ăn, trướng bụng, dần dần xơ hoá tế bào gan.
Gần đây, ở một số nơi có kinh nghiệm dùng quả bưởi non thái thành lát mỏng đem phơi cho khô, cho vào chảo sao cho chuyển sang màu vàng, có mùi thơm và khô kiệt.
Mỗi ngày dùng 30 - 50g bưởi non sao khô cho vào 500ml nước, sắc kỹ trong 30 phút, chắt lấy nước chia uống 3 lần trong ngày. Nước sắc bưởi non sao vàng có màu nâu nhạt, mùi thơm, vị đắng, có tác dụng làm giảm mỡ trong máu, chữa bệnh mỡ máu và gan nhiễm mỡ.

Theo Lương y Hoài Vũ – Khoa học & Đời sống

Nguy cơ bùng phát xơ gan trong tương lai

Với thói quen uống rượu bia tràn lan, ăn uống không đảm bảo vệ sinh như phần đông người VN, xơ gan trở thành căn bệnh khá phổ biến.

Diễn biến của xơ gan rất âm thầm, nhưng đến giai đoạn bùng phát, nó không thể chữa khỏi và gây tử vong tới 60% trong năm đầu tiên. 
Xơ gan là một bệnh mạn tính toàn thân tổn thương chủ yếu là cấu trúc của gan bị biến dạng do sự tăng sinh và xơ hóa của tổ chức gan, hình thành các cục tại mô gan. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chức năng gan giảm và một loạt triệu chứng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Số bệnh nhân xơ gan điều trị tại các viện thường chiếm khoảng 60%. Sở dĩ nhiều như vậy vì phần đông người dân còn có thói quen uống nhiều rượu bia. Nguyên nhân còn lại là sự xâm nhập của virus viêm gan B và C.
Gan là một bộ phận quan trọng của cơ thể mà khi nhắc đến hầu hết mọi người đều có thể hình dung. Các bác sĩ đưa ra một so sánh thú vị là, hình dáng của gan người khá giống với gan lợn. Gan không chỉ là bộ máy lọc chất độc cho cơ thể. Nó còn có nhiệm vụ tổng hợp nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu cho các bộ phận khác. Khi bị xơ, bề ngoài bị sần sùi. Thậm chí, còn bị xơ cứng đi như đá.
Và khi ấy, sẽ có một loạt biến chứng của xơ gan bao gồm: rối loạn tâm thần, hôn mê, bụng chướng căng, xuất huyết nội và suy thận. Xơ gan gặp ở cả người lớn và trẻ em. Đây là bệnh tiến triển từ từ, khi có triệu chứng rõ ràng thì bệnh đã rất nặng với nhiều biến chứng nguy hiểm, việc điều trị sẽ gặp nhiều khó khăn.

Theo VTV

Xuất huyết tiêu hóa do xơ gan


Biến chứng xuất huyết tiêu hóa hay gặp ở bệnh nhân xơ gan, với triệu chứng nôn ra máu tươi và đi ngoài phân đen.


Xơ gan là bệnh phổ biến mà hậu quả dẫn đến suy chức năng gan và tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Khi áp lực tĩnh mạch cửa tăng cao sẽ làm căng giãn các tĩnh mạch ở vùng thực quản và tâm phình vị, đến một mức độ nào đó nó sẽ làm vỡ các tĩnh mạch này gây biến chứng xuất huyết (chảy máu) tiêu hóa.
Mới đây, một bệnh nhân nữ 50 tuổi (ở Hà Nội) vào cấp cứu tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108 trong tình trạng mất máu trầm trọng, da nhợt nhạt và mạch đập rất yếu. Bệnh nhân cho biết vẫn thường bị nôn ra máu, trước nhập viện đã nôn máu rất nhiều. Bác sĩ chẩn đoán chảy máu tiêu hóa do vỡ tĩnh mạch thực quản dạ dày.
Cũng mới đây, Bệnh viện 108 tiếp nhận bệnh nhân B.Q.M (ở Hạ Long, Quảng Ninh) bị xơ gan từ nhiều năm nay, bị biến chứng chảy máu tiêu hóa tái diễn nhiều lần, được xác định là do vỡ các búi tĩnh mạch giãn ở thực quản dạ dày do tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
 
Một ca xử trí can thiệp xuất huyết tiêu hóa trong xơ gan ở Bệnh viện 108 - Ảnh: L.Châu
 
Bệnh nhân bị chảy máu nặng, điều trị cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh với các biện pháp cầm máu bằng nội khoa, nội soi thực quản dạ dày đều không thành công, chỉ giúp tạm dừng chảy máu vài ngày. Biện pháp ngoại khoa mở ổ bụng và phình vị dạ dày để khâu cầm máu trực tiếp cũng không hiệu quả.
Toàn trạng bệnh nhân giảm sút do chảy máu nhiều lần, qua nhiều cuộc can thiệp, sức khỏe bệnh nhân suy giảm; sau đó được chuyển lên Bệnh viện 108, các bác sĩ đã triển khai can thiệp cầm máu mới khống chế được tình trạng xuất huyết.
Theo TS-BS Lê Văn Trường, Chủ nhiệm khoa Chẩn đoán và can thiệp tim mạch, Bệnh viện 108, một khi đã bị chảy máu tiêu hóa do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản dạ dày thì hầu hết sẽ bị tái phát nhiều lần.
Phương pháp điều trị chủ yếu ở các chuyên khoa tiêu hóa hiện nay là nội soi để thắt và gây xơ các tĩnh mạch bị giãn gây chảy máu. Tuy nhiên, sau điều trị nội soi thì tình trạng chảy máu tái phát vẫn rất phổ biến, bệnh nhân phải tiếp tục nhập viện nhiều lần vì biến chứng này.
Nguyên nhân của tình trạng chảy máu tái phát là vì áp lực tĩnh mạch cửa tăng cao do xơ gan. Trong khi đó, các phương pháp điều trị nội soi cầm máu không có tác dụng làm hạ áp lực tĩnh mạch cửa, nên chỉ một thời gian sau thì tĩnh mạch thực quản dạ dày lại căng giãn và vỡ lại.
Để giải quyết tình trạng này cần dùng kỹ thuật nối thông cửa - chủ trong gan qua tĩnh mạch cảnh. Kỹ thuật này tạo một đường nối thông trong nhu mô gan giữa tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch gan, làm phần lớn dòng máu tĩnh mạch cửa có lối thoát thẳng về tim, không phải đi qua nhu mô gan xơ, nên áp lực hạ xuống nhanh, giúp các tĩnh mạch ở thực quản dạ dày hết căng giãn và giảm nguy cơ vỡ lại.

Theo Liên Châu - Thanh Niên

Bị áp-xe gan vì ăn rau bón phân bắc?

Rau củ quả trồng tưới bằng phân bắc ẩn núp ký sinh trùng độc hại tên amíp có thể gây bệnh áp-xe gan. Những đồn thổi này có căn cứ không?

Áp-xe gan do amíp (amibe) là căn bệnh khởi xuất từ biến chứng bệnh kiết lỵ mạn tính mà thủ phạm là amíp. Bệnh này thường gặp ở các xứ nhiệt đới như các nước Đông Nam Á và châu Phi nhưng ít gặp ở Việt Nam hiện nay.
Đường đi của thủ phạm amíp

Amíp, còn gọi “biến hình trùng”, là loại đơn bào không có hình dạng cố định, di chuyển nhờ vào các giả túc (Pseudopod, là phần nhô ra của tế bào chất theo hướng di chuyển).
Tên khoa học amíp là Entamoeba histolytica, là dạng gây bệnh; còn Entamoeba coli là dạng tiềm sinh không gây bệnh, người bệnh thường có thể mang mầm bệnh nhưng không phát bệnh, tuy nhiên đây là cơ nguyên gây lan truyền bệnh.
Có những nghiên cứu đã phát hiện các yếu tố có thể làm tăng hoạt lực của entamoeba từ dạng sống tiềm sinh thành dạng gây bệnh, như: tình trạng suy kiệt sau nguyên nhân (bệnh nặng; stress nặng như mất người thân, thất tình…), suy giảm miễn dịch…
Tuy nhiên yếu tố làm entamoeba từ dạng không gây bệnh sang gây bệnh rõ nhất là mất cân bằng dòng vi trùng trong đường ruột, thường xảy ra sau dùng kháng sinh liều cao qua đường uống, làm chết các dòng vi trùng sống cộng sinh trong đường ruột, gây mất cân bằng sinh thái vi trùng trong đường ruột.
Entamoeba histolytica sống trong đường ruột dưới hai thể dưỡng bào và bào nang. Thể bào nang hiện diện trong ruột người khoẻ mạnh và thải ra ngoài theo phân. Ở những nơi còn bón phân người trong nông nghiệp hay đi cầu trên sông rạch ao hồ sẽ là nguồn lây nhiễm bệnh này.
Khi ăn những rau củ quả hoặc uống nước có bào nang đó vào ruột non, các trypsin của dịch tiêu hoá sẽ phá hủy các vỏ bọc và thải ra các thể dưỡng bào entamoeba. Các con entamoeba sẽ thường trú ở vùng manh tràng, khi có đủ các yếu tố thuận lợi chúng sẽ hoạt hóa thành dạng gây bệnh.
 
Để phát hiện sớm bệnh
80% áp-xe gan do amíp là ở gan phải. Ba triệu chứng chủ yếu là: đau vùng hạ sườn phải, sốt, gan to. Bệnh nhân có thể có tiền sử bị bệnh lỵ. Ngoài ra, khi có các triệu chứng nghi ngờ như đi cầu ra nhầy máu, mót cầu… cũng nên đi khám sớm để được chẩn đoán chính xác.
Xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán áp-xe gan do amíp là xét nghiệm huyết thanh tìm kháng thể của amíp bằng phương pháp miễn dịch enzyme EIA. Xét nghiệm này duy trì kết quả dương tính thời gian dài (6 - 12 tháng).
Sau khi đã trị khỏi và có thể dương tính ở những người không có triệu chứng đang sống ở vùng dịch tễ của amíp. Xét nghiệm huyết thanh thứ hai là tìm kháng nguyên của amíp bằng phương pháp ELISA. Xét nghiệm định lượng ELISA giúp chẩn đoán người bệnh bị lỵ amíp hay áp-xe do amíp, tuỳ nồng độ pha loãng huyết thanh với phản ứng dương tính và kháng nguyên.
Với phản ứng dương tính dưới 1/400, bệnh nhân có thể bị lỵ amíp; còn nếu phản ứng dương tính trên 1/800, bệnh nhân có thể bị áp-xe do amíp. Phản ứng ELISA còn giúp đánh giá kết quả điều trị áp-xe gan do amíp (nếu đáp ứng điều trị, sau một tháng phản ứng kháng nguyên sẽ giảm dưới 1/200).
Ngoài xét nghiệm huyết thanh thì với các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm cũng giúp chẩn đoán chính xác tình trạng áp-xe, kích thước, vị trí… Siêu âm cũng giúp đánh giá kết quả điều trị, nếu sau điều trị có đáp ứng thì kích thước ổ áp-xe sẽ thu nhỏ lại.
Điều trị không nhất thiết phải phẫu thuật
Hiện nay với nhiều thuốc điều trị đặc hiệu như metronidazol, tinidazol… việc điều trị bệnh lỵ amíp đã trở nên hữu hiệu và làm giảm biến chứng áp-xe gan xuống đến mức thấp nhất. Từ đây, điều trị phẫu thuật cũng giảm hẳn, trừ trường hợp có biến chứng hay không đáp ứng với điều trị nội
Biến chứng của áp-xe gan do amíp nếu không điều trị sẽ rất nặng, do 80% vị trí áp-xe gan loại này nằm ở nửa trên của gan nên liên quan nhiều đến cơ hoành. Áp-xe ở gan phải có thể phá vỡ cơ hoành, gây tràn mủ màng phổi phải.
Áp-xe ở gan trái nguy hiểm hơn do tiếp xúc với màng tim, nếu vỡ sẽ gây tràn mủ màng tim, rất dễ tử vong. Do đó nếu ổ áp-xe to ở gan trái thì thường được khuyên phẫu thuật dẫn lưu mủ sớm để tránh biến chứng nguy hiểm.
Ngoài ra, áp-xe ở gan phải nếu to cũng được khuyên nên dẫn lưu sớm. 20% áp-xe gan còn lại nằm ở nửa dưới gan cũng có thể gây biến chứng viêm phúc mạc nếu ổ áp-xe vỡ vào khoang phúc mạc.
Với các phương tiện chẩn đoán hiện đại, vệ sinh môi trường được cải thiện, các thuốc điều trị hiệu quả… bệnh lỵ amíp cũng như áp-xe do amíp ngày càng giảm dần và các biến chứng của áp xe do amíp hiện đã hiếm hẳn so với thập niên 1970 - 1980 tại Việt Nam. 
 

Theo ThS.BS Dương Phước Hưng - Sài Gòn Tiếp Thị

Viêm gan B và những thói quen độc hại

Uống nhiều rượu, hút thuốc, thiếu ngủ, dùng thuốc tùy tiện, dễ nổi giận, ăn nhiều mỡ, hay ăn đêm là 7 thói quen độc hại với người mắc viêm gan B.

1. Uống quá nhiều rượu

Rượu sau khi vào cơ thể một lượng nhỏ thông qua quá trình trao đổi chất chủ yếu thực hiện ở gan. Nếu uống quá nhiều, rượu tích tụ trong gan đến một mức nhất định sẽ gây tổn thương gan.

Rượu rất có hại cho những bệnh nhân viêm gan B mãn tính. Virus viêm gan B và rượu khi cùng tồn tại sẽ gia tăng tổn hại cho gan, dẫn đến xơ gan, ung thư gan. Vì vậy, khuyến cáo người có viêm gan B không nên uống rượu và đồ uống có cồn.


2. Loạn dùng thuốc

Việc mua và sử dụng thuốc đúng liều, đúng lượng là khá khó khăn với người tiêu dùng. Việc sử dụng thuốc tràn lan sẽ chỉ khiến bệnh của bạn trở nên trầm trọng hơn!

Thuốc có ảnh hưởng nhất định đến các mô và các cơ quan của cơ thể. Thuốc sau khi vào cơ thể đa số được chuyển hóa qua gan. Khi sử dụng thuốc, gánh nặng của gan sẽ gia tăng, gây tổn hại cho gan. Vì vậy, cần hết sức thận trọng khi sử dụng.

Một số bệnh nhẹ như cảm lạnh không nên lạm dụng thuốc, hãy nghỉ ngơi và uống nhiều nước. Nếu cần, hãy sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ và lựa chọn các loại ít gây tổn thương cho gan.

Những người nhiễm viêm gan B nên chú ý điểm sau:

- Cố gắng tránh dùng thuốc.

- Kịp thời thông báo với bác sĩ tình hình bệnh.

- Tránh sử dụng các loại thuốc có hại cho gan.

- Lựa chọn các loại thuốc ít có tác động đến chức năng gan.

- Thường xuyên kiểm tra chức năng gan trong thời gian sử dụng thuốc.

3. Thiếu ngủ

Trung y cho rằng, gan là bộ phận lưu trữ điều chỉnh các chức năng của máu. Nếu cơ thể được nghỉ ngơi trong trạng thái yên tĩnh, khi nhu cầu máu của các bộ phận được giảm xuống thì lượng máu đó được trở lại gan.

Nếu thiếu ngủ, hoặc nghỉ ngơi không hợp lí dẫn đến sự thiếu hụt của máu ở gan ảnh hưởng đến sự nuôi dưỡng tế bào gan.

Nên nghỉ ngơi từ 23h để có được giấc ngủ sâu vào 1-3h sáng. Nên ngủ 8 tiếng mỗi ngày, người già là 7-9 tiếng.

4. Dễ nổi giận và bực tức

Nếu một người bị căng thẳng trong thời gian dài, tâm trạng không được giải tỏa, khiến khí không được lưu thông, gây tổn hại cho gan, có biểu hiện như tức ngực, đau xương sườn.

Hãy thường xuyên nói chuyện với người thân và bè bạn, đồng nghiệp để học cách điều hòa và khắc phục trấn áp trạng thái tâm lí. Học cách thích ứng với hoàn cảnh và các tình huống khó khăn.

5. Ăn nhiều dầu mỡ

Mỡ là thành phần dinh dưỡng quan trọng của cơ thể. Lượng mỡ thích hợp đưa vào cơ thể cung cấp năng lượng và duy trì chức năng sinh lý.

Tuy nhiên, dầu mỡ chính là kẻ thù số một của gan, người có gan không tốt nếu hấp thụ lượng chất béo cao sẽ tăng gánh nặng cho gan.

Bạn cần hết sức chú ý đến thói quen dinh dưỡng hàng ngày, đặc biệt là thành phần mỡ trong thức ăn, nên lựa chọn thức ăn thanh đạm, ít dầu mỡ, thay thế bổ sung các loại thực phẩm nhiều vitamin như hoa quả tươi.

6. Hay ăn đêm

Dinh dưỡng sau khi được hấp thụ vào cơ thể đều được chuyển hóa qua gan. Việc ăn đêm ảnh hưởng đến thời gian nghỉ ngơi của gan, tăng gánh nặng cho gan. Ngoài ra, ăn đêm còn không có lợi cho các chức năng khác như: dạ dày, tì vị, thận, mật…

Những người mắc viêm gan B mãn tính tốt nhất không nên ăn đêm hoặc cố gắng giảm thiểu ăn đêm.

7. Hút thuốc lá


Khói thuốc sau khi được hít vào đều gây tổn hại với các cơ quan trong cơ thể ở những mức độ khác nhau, là nguyên nhân gây ra các bệnh ung thư và các bệnh khác.

Gan là cơ quan giải độc, sau khi bị nhiễm vi rút gan B, chức năng của gan giảm xuống, sự gia tăng nicotin trong cơ thể chất thêm gánh nặng cho gan và gây tổn hại trực tiếp đến sức khỏe.

Những bệnh nhân viêm gan B mãn tính tuyệt đối không nên hút thuốc.

Theo Dân trí

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons